Bối cảnh Đại Cách mạng Văn hóa vô sản

Sau khi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập, Mao Trạch Đông muốn áp dụng mô hình của Stalin để xây dựng đất nước. Mao Trạch Đông tin rằng mô hình của Stalin là phương thức tiến hành cải tạo chủ nghĩa cộng sản tại Trung Quốc. Dưới thời kỳ Khrushchev lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô bắt đầu phủ nhận mô hình của Stalin, còn được gọi chủ nghĩa xét lại. Mao Trạch Đông chống lại chủ nghĩa hữu khuynh, mở rộng đấu tranh giai cấp, bác bỏ chủ nghĩa xét lại về Stalin. Đảng Cộng sản Trung Quốc đưa ra quan điểm Mao Trạch Đông phát động Đại Cách mạng Văn hóa để bắt đầu ngăn chặn chủ nghĩa tư bản phục hồi, duy trì Đảng trong sạch và tìm con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội bằng chính mình. Trong Đảng, Mao Trạch Đông chỉ trích đối lập, Chủ tịch nước Lưu Thiếu Kỳ, Tổng Bí thư Đặng Tiểu Bình và chính sách khác là "sai lầm", mâu thuẫn giữa Lưu Thiếu KỳMao Trạch Đông gia tăng, về con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, Lưu Thiếu KỳĐặng Tiểu Bình đưa ra quan điểm trái ngược với Mao Trạch Đông, để phát triển quan điểm của mình họ đã lập các nhóm nhỏ mà không cần thông báo trước với Mao Trạch Đông. Chính trong thời điểm này, Ủy ban Trung ương ĐảngMao Trạch Đông đề xuất chủ nghĩa sửa đổi, Đảng và Nhà nước đang đối mặt với chủ nghĩa tư bản phục hồi hết sức nguy hiểm, vài năm trước tại nông thôn thực hiện chính sách "bốn sạch" (tiếng Trung: 四清, tứ thanh), và tại thành thị là "năm diệt" (tiếng Trung: 五反, ngũ phiên) và thể hiện sự phê phán các tư tưởng, vận động quần chúng ra sức đấu tranh bảo vệ Đảng và Nhà nước.

Phong trào bốn sạch

Năm 1956, Đại hội Đảng lần thứ 20 Đảng Cộng sản Liên Xô chỉ trích Stalin, Mao Trạch Đông phản đối đưa ra quan điểm trái chiều. Tháng 4/1959, tại Hội nghị Trung ương 7 khóa VIII Đảng Cộng sản Trung Quốc, Mao Trạch Đông đưa ra quan điểm, nhấn mạnh sức mạnh được tập trung vào Ủy ban Thường vụ Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương do ông lãnh đạo. Ngày 2/7/1959, Hội nghị Bộ Chính trị mở rộng và Hội nghị Trung ương 8 khóa VIII họp tại Lư Sơn, tại Hội nghị này đã đưa ra quan điểm "đánh đổ tập đoàn phản động Bành" và "bảo vệ con đường đúng đắn của Đảng, đập tan chủ nghĩa cơ hội xét lại". Hội nghị Lư Sơn ban đầu dự định khắc phục sai lầm cực "tả" có tính thuyết phục xuất hiện trong Đại nhảy vọt năm 1958, nhưng đề xuất không được đồng ý trong cuộc họp. Ngày 14/7, Bộ trưởng Quốc phòng Bành Đức Hoài gửi thư cho Mao Trạch Đông "Thư gửi Chủ tịch tham khảo", chỉ trích Mao Trạch Đông rằng Đại nhảy vọt là "tính chất cuồng tín của giai cấp tiểu tư sản" và "cần phải ngăn chặn sự nguy hiểm của chủ nghĩa Stalin". Những lời chỉ trích của Bành Đức Hoài tương tự như những lời lẽ của Khrushchev, Bí thư thứ nhất Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô cách đây một năm, khi mối quan hệ Trung – Xô sụp đổ. Sau khi Mao Trạch Đông nhận được bức thư đã phân phát trong cuộc thảo luận, Hoàng Khắc Thành, Trương Văn Thiên, Chu Tiểu Chu và nhiều người khác đồng ý. Ngày 23/7, Mao Trạch Đông, người chưa bao giờ bày tỏ quan điểm của mình, cân nhắc xu hướng áp đảo trong đảng để khẳng định ý kiến ​​của Bành Đức Hoài rằng lá thư cho thấy "sự rung chuyển của giai cấp tư sản" và tấn công vào đảng. Mao Trạch Đông tức giận với Bành Đức Hoài: "Ông đang chống lại Trung ương, bức thư đã phân phát, để quần chúng đấu tranh, tổ chức lực lượng, thiết lập lại Đảng và thế giới theo khuôn khổ của ông". Ngày 2/8, Mao Trạch Đông đã phát biểu và huy động để phản đối "cuộc tấn công lan rộng của chủ nghĩa cơ hội". Ông tuyên bố rõ ràng rằng không còn là vấn đề chống lại "cực tả" nữa. Bắt đầu từ ngày hôm sau, mỗi nhóm bắt đầu chỉ trích Bành Đức Hoài, Hoàng Khắc Thành, Trương Văn Thiên, Chu Tiểu Chu tương ứng.

Đại nhảy vọt

Bài chi tiết: Đại nhảy vọt

Năm 1958, sau kế hoạch Năm năm lần thứ nhất, Mao Trạch Đông kêu gọi phát triển một "chủ nghĩa xã hội triệt để" trong nỗ lực đưa đất nước sang xã hội cộng sản tự cung tự cấp. Để đạt được mục tiêu này, Mao khởi xướng kế hoạch Đại nhảy vọt, thiết lập các "Xã Nhân dân đặc biệt" (thường gọi là Công xã nhân dân) ở nông thôn thông qua việc sử dụng lao động tập thể và vận động quần chúng. Nhiều cộng đồng dân cư đã được huy động để sản xuất một mặt hàng duy nhất-đó là thép. Và Mao Trạch Đông tuyên bố sẽ tăng sản lượng nông nghiệp lên gấp đôi mức năm 1957. Nhưng trên thực tế,sản lượng nông nghiệp thời kì đó của Trung Quốc còn không bằng thời vua Càn Long và thời nhà Thanh.[cần dẫn nguồn]

Cuộc Đại nhảy vọt là một thất bại về kinh tế. Các ngành công nghiệp rơi vào tình trạng bất ổn vì nông dân sản xuất quá nhiều thép chất lượng thấp trong khi các ngành khác bị bỏ rơi. Hơn nữa, những người nông dân không qua đào tạo và được trang bị nghèo nàn để sản xuất thép, phần lớn dựa vào khu vực sân sau nhà để đạt chỉ tiêu sản xuất thép do các quan chức địa phương đặt ra. Trong khi đó, các công cụ nhà nông chính bị nấu chảy để làm thép khiến quy mô sản xuất nông nghiệp bị thu nhỏ. Điều này dẫn đến sự sụt giảm sản lượng của phần lớn các mặt hàng ngoại trừ gang và thép không đạt tiêu chuẩn chất lượng. Tồi tệ hơn nữa, để tránh bị phạt, chính quyền địa phương thường xuyên phóng đại các con số và che giấu khiến cho vấn đề thêm trầm trọng trong nhiều năm[3].

Hầu như chưa phục hồi từ nhiều thập kỷ chiến tranh, nền kinh tế Trung Quốc thêm một lần nữa rơi vào khủng hoảng. Năm 1958, Đảng Cộng sản Trung Quốc bắt buộc phải thừa nhận rằng những số liệu thống kê sản xuất đã bị phóng đại. Ngoài ra, phần nhiều lượng thép sản xuất ra không tinh khiết và vô ích. Trong khi đó, sự hỗn loạn trong các khu sản xuất tập thể, thời tiết xấu và việc xuất khẩu lương thực nhằm đảm bảo an ninh lương thực đã dẫn đến một trận đói kém cực lớn. Thực phẩm trong tình trạng hết sức khan hiếm và sản xuất giảm đáng kể. Theo nhiều nguồn khác nhau, số người chết do nạn đói này gây ra ước tính 20 đến 30 triệu người[4].

Sự thất bại của cuộc Đại nhảy vọt có tác động lớn lên uy tín của Mao Trạch Đông bên trong Đảng. Năm 1959, ông ta từ chức Chủ tịch nhà nước, và sau đó Lưu Thiếu Kỳ lên thay. Tháng 7 năm 1959, những người lãnh đạo cấp cao của Đảng triệu tập tại Lư Sơn để thảo luận về các quyết sách của Đảng, nhất là các tác động của cuộc Đại nhảy vọt. Tại hội nghị, nguyên soái Bành Đức Hoài, khi đó là Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc, đã chỉ trích chính sách của Mao Trạch Đông trong cuộc Đại nhảy vọt là đã quản lý kém và đi ngược lại các quy luật kinh tế.[3].

Trong lúc Hội nghị Lư Sơn đóng vai trò như một hồi chuông báo tử cho nguyên soái Bành, cũng là nhà phê bình lớn tiếng nhất của Mao, điều này đã dẫn đến một sự chuyển giao quyền lực vào tay những người thuộc phái ôn hòa cầm đầu là Lưu Thiếu KỳĐặng Tiểu Bình, những người nắm quyền kiểm soát chính phủ[3]. Sau Hội nghị, Mao Trạch Đông đã tìm cách tước bỏ các chức vụ chính thức của Bành Đức Hoài và buộc tội ông ta là kẻ "cơ hội cánh hữu". Bành Đức Hoài bị thay bởi Lâm Bưu, một vị tướng khác trong lực lượng quân cách mạng và sau này là người đóng vai trò chủ đạo trong việc thực hiện các chính sách của Chủ nghĩa Mao Trạch Đông.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Đại Cách mạng Văn hóa vô sản http://cpc.people.com.cn/GB/64162/64168/64563/6544... http://www.britannica.com/eb/article-9028164/Cultu... http://www.britannica.com/event/Cultural-Revolutio... http://users.erols.com/mwhite28/warstat1.htm#Mao http://translate.google.com/?hl=en&sl=es&tl=en&sug... http://www.nytimes.com/1993/01/06/world/a-tale-of-... http://www.washingtonpost.com/wp-dyn/content/artic... http://www.taz.de/50-Jahre-Kulturrevolution-in-Chi... http://www.odu.edu/ao/instadv/quest/LinBiao.html http://www-chaos.umd.edu/history/prc2.html